Thứ Sáu Tuần Thánh
Kỷ Niệm Cuộc Khổ Nạn Của Chúa

Phần Thứ Nhất: Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: Is 52, 13-53, 12
“Người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta”. (Bài ca
thứ tư của người Tôi Tớ Chúa)

Trích sách Tiên tri Isaia.
Này tôi tớ Ta sẽ được cao minh, sẽ vinh thăng tấn
phát, cao cả tuyệt vời. Cũng như nhiều người đã
kinh ngạc, vì thấy người tàn tạ mất hết vẻ người,
dung nhan người cũng không còn nữa, cũng thế,
muôn dân sẽ sửng sốt, các vua không còn biết nói
chi trước mặt người. Vì họ sẽ thấy việc chưa ai kể
cho mình, sẽ biết điều mình chưa hề được nghe.

Ai mà tin được điều chúng ta nghe? Và Chúa đã tỏ
ra sức mạnh cho ai? Người sẽ lớn lên trước mặt
Ngài như một chồi non, như một rễ cây, tự đất khô
khan. Người chẳng còn hình dáng, cũng chẳng còn
sắc đẹp để chúng ta nhìn ngắm, không còn vẻ bên
ngoài, để chúng ta yêu thích; bị người đời khinh dể
như kẻ thấp hèn nhất, như kẻ đớn đau nhất, như
kẻ bệnh hoạn, như một người bị che mặt và bị
khinh dể, bởi đó, chúng ta không kể chi đến người.
Thật sự, người đã mang lấy sự đau yếu của chúng
ta, người đã gánh lấy sự đau khổ của chúng ta. Mà
chúng ta lại coi người như kẻ phong cùi, bị Thiên
Chúa đánh phạt và làm cho nhuốc hổ. Nhưng người
đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta, bị tan nát vì sự
gian ác chúng ta. Người lãnh lấy hình phạt cho
chúng ta được bình an, và bởi thương tích người
mà chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lang
thang như chiên cừu, mỗi người một ngả. Chúa đã
đón lấy những tội ác của tất cả chúng ta.
Người hiến thân vì người tình nguyện, và không mở
miệng như con chiên bị đem đi giết, và như chiên
non trước mặt người xén lông, người thinh lặng
chẳng hé môi. Do cưỡng bách và án lệnh, người đã
bị tiêu diệt; ai sẽ còn kể đến dòng dõi người nữa,
bởi vì người đã bị khai trừ khỏi đất người sống; vì
tội lỗi dân Ta, Ta đánh phạt người. Người ta định
đặt mồ người giữa những kẻ gian ác, nhưng khi
chết, người được chôn giữa kẻ giàu sang, mặc dầu
người đã không làm chi bất chánh, và miệng người

không nói lời gian dối. Chúa đã muốn hành hạ
người trong đau khổ.
Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ
thấy một dòng dõi trường tồn, và nhờ người, ý định
Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi khổ tâm của người,
người sẽ thấy và sẽ được thoả mãn. Nhờ sự thông
biết, tôi tớ công chính của Ta sẽ công chính hoá
nhiều người, sẽ gánh lấy những tội ác của họ. Bởi
đó, Ta trao phó nhiều dân cho người, người sẽ chia
chiến lợi phẩm với người hùng mạnh. Bởi vì người
đã hiến thân chịu chết và đã bị liệt vào hàng phạm
nhân, người đã mang lấy tội của nhiều người, và đã
cầu bầu cho các phạm nhân.

– Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 30, 2 và 6. 12-13. 15-16. 17 và 25
Ðáp: Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha
(Lc 23, 46).
Xướng:
1) Lạy Chúa, con tìm đến nương nhờ Ngài,
xin đừng để con muôn đời tủi hổ,
vì đức công minh Ngài, xin cứu chữa con!
Con phó thác tâm hồn trong tay Chúa,
lạy Chúa, lạy Thiên Chúa trung thành,
xin cứu chữa con.
2) Con trở nên đồ ô nhục đối với những người thù,
nên trò cười cho khách lân bang,
và mối lo sợ cho người quen biết;

gặp con ngoài đường, họ tránh xa con.
Con bị người ta quên, không để ý tới,
dường như đã chết, con đã trở nên như cái bình bị
vỡ tan.
3) Phần con, lạy Chúa, con tin cậy ở Ngài,
con kêu lên: Ngài là Thiên Chúa của con!
Vận mạng con ở trong tay Ngài,
xin cứu gỡ con khỏi tay quân thù và những người
bách hại.
4) Xin cho tôi tớ Chúa được thấy long nhan dịu
hiền,
xin cứu sống con theo lượng từ bi của Chúa.
Lòng chư vị hãy can trường mạnh bạo,
hết thảy chư vị là người cậy trông ở Chúa.

Bài Ðọc II: Dt 4, 14-16; 5, 7-9
“Người đã học vâng phục do những đau khổ Người
chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên
ơn cứu độ đời đời”.

Trích thư gởi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, chúng ta có một thượng tế cao
cả đã đi qua các tầng trời, là Ðức Giêsu, Con Thiên
Chúa, nên chúng ta hãy giữ vững việc tuyên xưng
đức tin của chúng ta. Vì chưng, không phải chúng
ta có thượng tế không thể cảm thông sự yếu đuối

của chúng ta, trái lại, Người đã từng chịu thử thách
bằng mọi cách như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.
Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng rơi
lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Ðấng có thể
cứu mình khỏi chết, và vì lòng thành kính, Người
đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã
học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và
khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu
độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người.

  • Đó là lời Chúa.

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Pl 2, 8-9
Chúa Kitô vì chúng ta đã vâng lời cho đến chết, và
chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh
Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên
mọi danh hiệu.

Phúc Âm: Ga 18, 1 – 19, 42
“Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.

C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại
khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu

C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng
ta, theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu đi với môn đệ sang qua suối
Xêrông, ở đó có một khu vườn, Người vào đó cùng
với các môn đệ. Giuđa, tên phản bội, đã biết rõ nơi
đó, vì Chúa Giêsu thường đến đấy với các môn đệ.
Nên Giuđa dẫn tới một toán quân cùng với vệ binh
do các thượng tế và biệt phái cấp cho, nó đến đây
với đèn đuốc và khí giới. Chúa Giêsu đã biết mọi sự
sẽ xảy đến cho Mình, nên Người tiến ra và hỏi
chúng:
J. “Các ngươi tìm ai?”
C. Chúng thưa lại:
S. “Giêsu Nadarét”.
C. Chúa Giêsu bảo:
J. “Ta đây”.
C. Giuđa là kẻ định nộp Người cũng đứng đó với
bọn chúng. Nhưng khi Người vừa nói “Ta đây”, bọn
chúng giật lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi
chúng:
J. “Các ngươi tìm ai?”
C. Chúng thưa:
S. “Giêsu Nadarét”.
C. Chúa Giêsu đáp lại:
J. “Ta đã bảo các ngươi rằng Ta đây! Vậy nếu các
ngươi tìm bắt Ta, thì hãy để cho những người này
đi”.
C. Như thế là trọn lời đã nói: “Con chẳng để mất
người nào trong những kẻ Cha đã trao phó cho

Con”. Bấy giờ Simon Phêrô có sẵn thanh gươm, liền
rút ra đánh tên đầy tớ vị thượng tế, chém đứt tai
bên phải. Ðầy tớ ấy tên là Mancô. Nhưng Chúa
Giêsu bảo Phêrô rằng:
J. “Hãy xỏ gươm vào bao. Chén Cha Ta đã trao lẽ
nào Ta không uống!”
C. Bấy giờ, toán quân, trưởng toán và vệ binh của
người Do-thái bắt Chúa Giêsu trói lại, và điệu Người
đến nhà ông Anna trước, vì ông là nhạc phụ của
Caipha đương làm thượng tế năm ấy. Chính Caipha
là người đã giúp ý kiến này cho người Do-thái: để
một người chết thay cho cả dân thì lợi hơn. Còn
Phêrô và môn đệ kia vẫn theo Chúa Giêsu. Môn đệ
sau này quen vị thượng tế nên cùng với Chúa Giêsu
vào trong sân vị thượng tế, còn Phêrô đứng lại
ngoài cửa. Vì thế, môn đệ kia là người quen với vị
thượng tế, nên đi ra nói với người giữ cửa và dẫn
Phêrô vào. Cô nữ tì gác cửa liền bảo Phêrô:
S. “Có phải ông cũng là môn đệ của người đó
không?”
C. Ông đáp:
S. “Tôi không phải đâu”.
C. Ðám thủ hạ và vệ binh có nhóm một đống lửa
và đứng đó mà sưởi vì trời lạnh, Phêrô cũng đứng
sưởi với họ. Vị thượng tế hỏi Chúa Giêsu về môn đệ
và giáo lý của Người. Chúa Giêsu đáp:
J. “Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ, Tôi
thường giảng dạy tại hội đường và trong đền thờ,
nơi mà các người Do-thái thường tụ họp, Tôi không

nói chi thầm lén cả. Tại sao ông lại hỏi Tôi? Ông cứ
hỏi những người đã nghe Tôi về những điều Tôi đã
giảng dạy. Họ đã quá rõ điều Tôi nói”.
C. Nghe vậy, một tên vệ binh đứng đó vả mặt Chúa
Giêsu mà nói:
S. “Anh trả lời vị thượng tế như thế ư”.
C. Chúa Giêsu đáp:
J. “Nếu Ta nói sai, hãy chứng minh điều sai đó; mà
nếu Ta nói phải, thì tại sao anh lại đánh Ta?”
C. Rồi Anna cho giải Người vẫn bị trói đến cùng vị
thượng tế Caipha. Lúc ấy Phêrô đang đứng sưởi. Họ
bảo ông:
S. “Có phải ông cũng là môn đệ người đó không?”
C. Ông chối và nói:
S. “Tôi không phải đâu”.
C. Một tên thủ hạ của vị thượng tế, có họ với người
bị Phêrô chém đứt tai, cãi lại rằng:
S. “Tôi đã chẳng thấy ông ở trong vườn cùng với
người đó sao?”
C. Phêrô lại chối nữa, và ngay lúc đó gà liền gáy.
Bấy giờ họ điệu Chúa Giêsu từ nhà Caipha đến
pháp đình. Lúc đó tảng sáng và họ không vào pháp
đình để khỏi bị nhơ bẩn và để có thể ăn Lễ Vượt
Qua. Lúc ấy Philatô ra ngoài để gặp họ và nói:
S. “Các ngươi tố cáo người này về điều gì”.
C. Họ đáp:

S. “Nếu hắn không phải là tay gian ác, chúng tôi đã
không nộp cho quan”.
C. Philatô bảo họ:
S. “Các ông cứ bắt và xét xử theo luật của các
ông”.
C. Nhưng người Do-thái đáp lại:
S. “Chúng tôi chẳng có quyền giết ai cả”.
C. Thế mới ứng nghiệm lời Chúa Giêsu đã nói
trước: Người sẽ phải chết cách nào. Bấy giờ Philatô
trở vào pháp đình gọi Chúa Giêsu đến mà hỏi:
S. “Ông có phải là Vua dân Do-thái không?”
C. Chúa Giêsu đáp:
J. “Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với
quan về tôi?”
C. Philatô đáp:
S. “Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông
cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã
làm gì?”
C. Chúa Giêsu đáp:
J. “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước
tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi
đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-
thái, nhưng nước tôi không thuộc chốn này”.
C. Philatô hỏi lại:
S. “Vậy ông là Vua ư?”
C. Chúa Giêsu đáp:

J. “Quan nói đúng: Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến
trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý.
Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng tôi”.
C. Philatô bảo Người:
S. “Chân lý là cái gì?”
C. Nói lời này xong, ông lại ra gặp người Do-thái và
bảo họ:
S. “Ta không thấy nơi người này có lý do để khép
án. Nhưng theo tục lệ các ngươi, ta sẽ phóng thích
cho các ngươi một tù nhân vào dịp Lễ Vượt Qua.
Vậy các ngươi có muốn ta phóng thích Vua Do-thái
cho các ngươi chăng?”
C. Họ liền la lên:
S. “Không phải tên đó, nhưng là Baraba”.
C. Baraba là một tên cướp. Bấy giờ Philatô truyền
đem Chúa Giêsu đi mà đánh đòn Người. Binh sĩ kết
một triều thiên bằng gai nhọn đội lên đầu Người và
nói:
S. “Tâu Vua Do-thái!”
C. Và vả mặt Người. Philatô lại ra ngoài và nói:
S. “Ðây ta cho dẫn người ấy ra ngoài cho các ngươi
để các ngươi biết rằng ta không thấy nơi người ấy
một lý do để kết án”.
C. Bấy giờ Chúa Giêsu đi ra, đội mão gai và khoác
áo đỏ. Philatô bảo họ:
S. “Này là Người”.

C. Vừa thấy Người, các thượng tế và vệ binh liền la
to:
S. “Ðóng đinh nó vào thập giá! Ðóng đinh nó vào
thập giá!”
C. Philatô bảo họ:
S. “Ðấy các ngươi cứ bắt và đóng đinh ông vào
thập giá, phần ta, ta không thấy lý do nào kết tội
ông”.
C. Người Do-thái đáp lại:
S. “Chúng tôi đã có luật, và theo luật đó nó phải
chết, vì nó tự xưng là Con Thiên Chúa”.
C. Nghe lời đó Philatô càng hoảng sợ hơn. Ông trở
vào pháp đình và nói với Chúa Giêsu:
S. “Ông ở đâu đến?”
C. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại câu nào. Bấy
giờ Philatô bảo Người:
S. “Ông không nói với ta ư? Ông không biết rằng ta
có quyền đóng đinh ông vào thập giá và cũng có
quyền tha ông sao?”
C. Chúa Giêsu đáp:
J. “Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên
không ban xuống cho, vì thế nên kẻ nộp tôi cho
quan, mắc tội nặng hơn”.
C. Từ lúc đó Philatô tìm cách tha Người. Nhưng
người Do-thái la lên:

S. “Nếu quan tha cho nó, quan không phải là trung
thần của Xêsa, vì ai xưng mình là vua, kẻ đó chống
lại Xêsa”.
C. Philatô vừa nghe lời đó, liền cho điệu Chúa Giêsu
ra ngoài rồi ông lên ngồi toà xử, nơi gọi là Nền đá,
tiếng Do-thái gọi là Gabbatha. Lúc đó vào khoảng
giờ thứ sáu ngày chuẩn bị Lễ Vượt Qua. Philatô bảo
dân:
S. “Ðây là vua các ngươi”.
C. Nhưng họ càng la to:
S. “Giết đi! Giết đi! Ðóng đinh nó đi!”
C. Philatô nói:
S. “Ta đóng đinh vua các ngươi ư?”
C. Các thượng tế đáp:
S. “Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Xêsa”.
C. Bấy giờ quan giao Người cho họ đem đóng đinh.
Vậy họ điệu Chúa Giêsu đi. Và chính Người vác
thập giá đến nơi kia gọi là Núi Sọ, tiếng Do-thái gọi
là Golgotha. Ở đó họ đóng đinh Người trên thập giá
cùng với hai người khác nữa: mỗi người một bên,
còn Chúa Giêsu thì ở giữa. Philatô cũng viết một
tấm bảng và sai đóng trên thập giá. Bảng mang
những hàng chữ này: “Giêsu, Nadarét, vua dân Do-
thái”. Nhiều người Do-thái đọc được bảng đó, vì nơi
Chúa Giêsu chịu đóng đinh thì gần thành phố, mà
bảng viết thì bằng tiếng Do-thái, Hy-lạp và La-tinh.
Vì thế các thượng tế đến thưa với Philatô:

S. Xin đừng viết “Vua dân Do Thái”, nhưng nên
viết: “Người này đã nói: ‘Ta là vua dân Do-thái'”.
C. Philatô đáp:
S. “Ðiều ta đã viết là đã viết”.
C. Khi quân lính đã đóng đinh Chúa Giêsu trên thập
giá rồi thì họ lấy áo Người chia làm bốn phần cho
mỗi người một phần, còn cái áo dài là áo không có
đường khâu, đan liền từ trên xuống dưới. Họ bảo
nhau:
S. “Chúng ta đừng xé áo này, nhưng hãy rút thăm
xem ai được thì lấy”.
C. Hầu ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Chúng đã chia
nhau các áo Ta và đã rút thăm áo dài của Ta”.
Chính quân lính đã làm điều đó.
Ðứng gần thập giá Chúa Giêsu, lúc đó có Mẹ Người,
cùng với chị Mẹ Người là Maria, vợ ông Clopas và
Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn
đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng:
J. “Hỡi Bà, này là con Bà”.
C. Rồi Người lại nói với môn đệ:
J. “Này là Mẹ con”.
C. Và từ giờ đó môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà
mình. Sau đó, vì biết rằng mọi sự đã hoàn tất, để
lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, Chúa Giêsu nói:
J. “Ta khát!”
C. Ở đó có một bình đầy dấm. Họ liền lấy miếng
bông biển thấm đầy dấm cắm vào đầu ngành cây

hương thảo đưa lên miệng Người. Khi đã nếm dấm
rồi, Chúa Giêsu nói:
J. “Mọi sự đã hoàn tất”.
C. Và Người gục đầu xuống trút hơi thở cuối cùng.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Hôm đó là ngày chuẩn bị lễ: để tội nhân khỏi treo
trên thập giá trong ngày Sabbat, vì ngày Sabbat là
ngày đại lễ, nên người Do-thái xin Philatô cho đánh
dập ống chân tội nhân và cho cất xác xuống. Quân
lính đến đánh dập ống chân của người thứ nhất và
người thứ hai cùng chịu treo trên thập giá với
Người. Nhưng lúc họ đến gần Chúa Giêsu, họ thấy
Người đã chết, nên không đánh dập ống chân
Người nữa, tuy nhiên một tên lính lấy giáo đâm
cạnh sườn Người; tức thì máu cùng nước chảy ra.
Kẻ đã xem thấy thì đã minh chứng, mà lời chứng
của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình
nói thật để cho các người cũng tin nữa. Những sự
việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh:
“Người ta sẽ không đánh dập một cái xương nào
của Người”. Lời Kinh Thánh khác rằng: “Họ sẽ nhìn
xem Ðấng họ đã đâm thâu qua”.
Sau đó, Giuse người xứ Arimathia, môn đệ Chúa
Giêsu, nhưng thầm kín vì sợ người Do-thái, xin
Philatô cho phép cất xác Chúa Giêsu. Philatô cho
phép. Và ông đến cất xác Chúa Giêsu. Nicôđêmô
cũng đến, ông là người trước kia đã đến gặp Chúa
Giêsu ban đêm. Ông đem theo chừng một trăm cân
mộc dược trộn lẫn với trầm hương. Họ lấy xác Chúa

Giêsu và lấy khăn bọc lại cùng với thuốc thơm theo
tục khâm liệm người Do-thái. Ở nơi Chúa chịu đóng
đinh có cái vườn và trong vườn có một ngôi mộ
mới, chưa chôn cất ai. Vì là ngày chuẩn bị lễ của
người Do-thái và ngôi mộ lại rất gần, nên họ đã
mai táng Chúa Giêsu trong mộ đó.
http://thanhlinh.net/node/20228

Liturgie van Goede Vrijdag


eerste lezing: Jes. 52, 13-53, 12
Hij werd mishandeld om onze misdaden.

Uit de Profeet Jesaja.
Zie mijn dienaar zal succesvol handelen,
hij zal worden verhoogd en verheven en zeer
verheerlijkt. Zoals velen over hem ontsteld hebben
gestaan, zo misvormd was hij, zo onmenselijk van
voorkomen en zijn schoonheid beneden die van
mensenkinderen. Zo zal hij vele volkeren slaan met
verbazing, koningen zullen hun mond voor hem
sluiten, want wat hun niet verteld is aanschouwen
zij en wat zij niet hebben gehoord, zien zij in. Wie
kon geloven wat wij hebben gehoord en over wie is
de arm van de Heer zichtbaar geworden? Hij is
geprezen als een alleenstaande loot en als een
wortel uit dorre grond; hij had gestalte noch
luister, zodat wij naar hem konden zien, geen

voorkomen, zodat wij hem zouden kunnen
begeren.
Veracht en door de mensen verstoten,
Man van smarten en door lijden gerijpt;
als een die zijn gelaat voor ons heeft verborgen,
veracht en door ons niet geteld.
Toch waren het onze pijnen, die hij droeg
en onze smarten, die hij op zich nam.
Wij daarentegen beschouwden hem als een
getroffene, als iemand, die door God is geslagen en
vernederd. Hij is echter doorboord om onze
zonden, mishandeld om onze misdaden, want op
hem rust de straf voor ons heil en door zijn
striemen is er genezing voor ons. Wij allen
dwaalden als een kudde, ieder ging zijn eigen weg;
de Heer liet op hem neerkomen de misdaad van
ons allen. Men mishandelde hem en hij heeft het
aanvaard, hij heeft zijn mond niet geopend.
Als het lam dat naar de slachtbank geleid wordt
en als het schaap dat voor zijn scheerder verstomt,
zo heeft hij zijn mond niet geopend.
Door een gewelddadige rechtspraak is hij
weggerukt. Wie is er nog, die denkt aan zijn leven?
Hij is immers weggenomen uit het land der
levenden, om de zonden van mijn volk tot de dood
toe geslagen. Men geeft hem een graf bij de
misdadigers en bij de rijken een rustplaats,
ofschoon hij geen onrecht gepleegd heeft
en er geen bedrog is geweest in zijn mond.
Het heeft de Heer behaagd hem met slagen te
pijnigen. Al brengt hij zichzelf ten offer,
toch zal hij een nageslacht zien, zijn dagen
verlengen en de wens van de Heer zal door zijn
hand vervuld worden.

Om zijn zwoegen zal hij licht zien en worden
verzadigd. Door zijn inzicht zal mijn dienaar als
rechtvaardige velen rechtvaardigen en hun
misdaden zal hij op zich laden. Daarom zal Ik hem
deel geven onder de groten, en met machtigen zal
hij de buit verdelen, omdat hij zijn ziel prijsgaf aan
de dood en onder de zondaars gerekend is. Hij
draagt immers de zonden van velen en is voor de
zondaars een voorspraak.

  • Woord van de Heer.
  • Wij danken God.

tussenzang: Ps. 31(30), 2 en 6, 12-13, 15-16, 17
en 25
Refrein:
Vader, in uw handen beveel Ik mijn geest.
Bij U, Heer, zoek ik mijn toevlucht,
stel mij toch nimmer teleur.
Vertrouwvol leg ik mijn geest in uw handen,
Gij zult mij beschermen, getrouwe God.
Mijn vijanden drijven de spot met mij,
mijn buren lachen mij uit.
Men is mij vergeten als was ik dood,
ik ben gebroken huisraad.
Toch blijf ik op U vertrouwen, Heer,
steeds zeg ik: Gij zijt mijn God.
Gij hebt mijn lot in uw hand,
bevrijd mij van mijn vervolgers.

Laat over uw dienaar uw Aanschijn stralen,
red mij door uw genade.
Schept moed en weest onverschrokken,
gij allen die hoopt op de Heer.

tweede lezing: Hebr. 4, 14-16; 5, 7-9
Hij heeft gehoorzaamheid geleerd en is voor allen
die Hem gehoorzamen oorzaak geworden van
eeuwig heil.
Uit de brief aan de Hebreeën.
Broeders en zusters, nu wij een verheven
hogepriester hebben, een die de hemelen is
doorgegaan, Jezus, de Zoon van God, nu moeten
wij vasthouden aan onze belijdenis. Want wij
hebben een hogepriester, die in staat is mee te
voelen met onze zwakheden. Hij werd zelf op
allerlei manieren op de proef gesteld, precies zoals
wij, afgezien dan van de zonde. Laten wij daarom
vrijmoedig naderen tot de troon van Gods genade,
om barmhartigheid en genade te verkrijgen en
tijdige hulp. In de dagen van zijn sterfelijk leven
heeft Hij onder luid geroep en geween gebeden en
smekingen opgedragen aan God, die Hem uit de
dood kon redden. Om zijn vroomheid is Hij
verhoord: hoewel Hij Gods Zoon was heeft Hij in de
school van het lijden gehoorzaamheid geleerd;
en toen hij het einde had bereikt is Hij voor allen,
die Hem gehoorzamen oorzaak geworden van
eeuwig heil.
Woord van de Heer.
Wij danken God.

vers voor het evangelie: Fil. 2, 8-9
Christus is voor ons gehoorzaam geworden tot de
dood, tot de dood aan een kruis.
Daarom heeft God Hem hoog verheven
en Hem de Naam verleend, die boven alle namen
is.
HET LIJDENSVERHAAL OP GOEDE VRIJDAG
Joh. 18, 1 – 19, 42
Het lijden van onze Heer Jezus Christus
A = allen; C = priester; L = lezer; P = overige
bijbelse personen.
C Het lijdensverhaal van onze Heer Jezus Christus
volgens Johannes.
L In die tijd ging Jezus met zijn leerlingen naar
buiten, naar de overkant van de beek Kedron.
Daar was een boomgaard, die Hij met zijn
leerlingen binnenging.
Maar ook Judas, die Hem zou overleveren, kende
deze plaats, omdat Jezus er dikwijls met zijn
leerlingen was samengekomen.
Zo kwam Judas daarheen met de afdeling soldaten
en met dienaars van de hogepriesters en
Farizeeën, voorzien van lantaarns, fakkels en
wapens. Jezus, die alles wist wat over Hem ging
komen, trad naar voren en zei tot hen:
C “Wie zoekt gij?”

L Zij antwoordden Hem:
A “Jezus, de Nazoreeër.”
L Jezus zei hun:
C “Dat ben Ik.”
L Ook Judas, zijn verrader, bevond zich bij hen.
Nauwelijks had Jezus hun gezegd: Dat ben Ik,
of zij weken achteruit en vielen op de grond.
Nog eens vroeg Hij hun:
C “Wie zoekt gij?”
L Zij zeiden:
A “Jezus, de Nazoreeër.”
L Jezus antwoordde:
C “Ik heb u gezegd, dat Ik het ben.
Als gij Mij zoekt, laat deze mensen dan gaan.”
L Vervuld moest worden wat Hij gezegd had:
Niemand van hen, die Gij Mij gegeven hebt,
liet Ik verloren gaan.
Maar Simon Petrus had een zwaard bij zich.
Hij trok het en verwondde daarmee de knecht van
de hogepriester
door hem het rechteroor af te slaan.
De naam van die knecht was Malchus.
Jezus echter sprak tot Petrus:

C “Steek dat zwaard in de schede;
zou Ik de beker niet drinken,
die mijn Vader Mij gegeven heeft?”
L De afdeling met de bevelhebber en de dienaars
van de Joden
grepen toen Jezus vast, boeiden Hem
en brachten Hem eerst naar Annas.
Deze was namelijk de schoonvader van Kájafas,
die dat jaar hogepriester was,
dezelfde Kájafas, die aan de Joden de raad had
gegeven:
Het is beter, dat er één mens sterft voor het volk.
Simon Petrus en nog een andere leerling volgden
Jezus.
Die leerling nu, was een bekende van de
hogepriester en zo ging hij tegelijk met Jezus
het paleis van de hogepriester binnen, terwijl
Petrus buiten de poort bleef staan. Die andere
leerling, de bekende van de hogepriester,
kwam naar buiten, sprak met de portierster en
bracht Petrus naar binnen.
Het meisje, dat aan de poort stond, vroeg Petrus:
P “Ben je ook niet een van de leerlingen van die
man?”
L Hij zei:
P “Welneen.”
L Omdat het koud was, hadden de knechten en
dienaars een houtskoolvuur aangelegd en stonden

zich te warmen. Ook Petrus stond bij hen en
warmde zich. De hogepriester ondervroeg Jezus
over zijn leerlingen en zijn leer.
Jezus antwoordde hem:
C “Ik heb openlijk tot de wereld gesproken.
Ik heb altijd onderricht gegeven in een synagoge of
in de tempel waar alle Joden bijeenkomen en er is
niets wat Ik in het geheim heb gesproken. Waarom
ondervraagt gij Mij?
Ondervraag de mensen, die gehoord hebben wat Ik
hun heb verkondigd. Die weten goed wat Ik heb
gezegd.”
L Op dit woord gaf een van de dienaars, die naast
Hem stond, Jezus een klap in het gezicht en
voegde Hem toe:
P “Antwoordt Gij zo de hogepriester?”
L Jezus antwoordde hem:
C “Indien Ik iets verkeerds gezegd heb, verklaar
dan wat er verkeerd in was; maar indien het goed
was, waarom slaat gij Mij?”
L Daarop zond Annas Hem geboeid naar de
hogepriester Kájafas. Simon Petrus stond zich te
warmen toen iemand hem vroeg:
P “Ben ook jij niet een van zijn leerlingen?”
L Hij ontkende het en zei:

P “Welneen.”
L Maar een van de knechten van de hogepriester,
een bloedverwant van de man wie Petrus het oor
had afgeslagen zei:
P “Heb ik je niet in de boomgaard bij Hem gezien?”
L Petrus ontkende het opnieuw
en meteen begon er een haan te kraaien.
Toen brachten ze Jezus
van het huis van Kájafas naar het pretorium.
Het was vroeg in de morgen.
Zelf gingen zij het pretorium niet binnen,
want ze moesten het paasmaal kunnen eten
en mochten zich daarom niet verontreinigen.
Daarom kwam Pilatus naar buiten en vroeg hun:
P “Welke beschuldiging brengt gij tegen deze man
in?”
L Zij gaven hem ten antwoord:
A “Als dit geen misdadiger was, zouden wij Hem
niet aan u hebben overgeleverd.”
L Daarop zei Pilatus:
P “Neemt Hem dan zelf en vonnist Hem volgens uw
Wet!”
L De Joden antwoordden hem:

A “Wij missen het recht om iemand ter dood te
brengen.”
L Zo zou Jezus’ woord in vervulling gaan,
waarmee Hij had aangeduid welke dood Hij zou
sterven.
Nu ging Pilatus het pretorium binnen,
riep Jezus bij zich en zei tot Hem:
P “Zijt Gij de koning der Joden?”
L Jezus antwoordde hem:
C “Zegt gij dit uit uzelf of hebben de anderen u
over Mij gesproken?”
L Pilatus gaf ten antwoord:
P “Ben ik soms een Jood? Uw eigen volk en de
hogepriesters hebben U aan mij overgeleverd.
Wat hebt Gij gedaan?”
L Jezus antwoordde:
C “Mijn koningschap is niet van deze wereld.
Zou mijn koningschap van deze wereld zijn,
dan zouden mijn dienaars er wel voor gestreden
hebben,
dat Ik niet aan de Joden werd uitgeleverd.
Mijn koningschap is evenwel niet van hier.”
L Pilatus hernam:
P “Gij zijt dus toch koning?”

L Jezus antwoordde:
C “Ja, koning ben Ik. Hiertoe ben Ik geboren en
hiertoe ben Ik in de wereld gekomen om getuigenis
af te leggen van de waarheid.
Al wie uit de waarheid is, luistert naar mijn stem.”
L Pilatus zei tot Hem:
P “Wat is de waarheid?”
L Na die woorden ging hij weer naar buiten tot de
Joden en zei:
P “Ik vind hoegenaamd geen schuld in Hem.
Maar er bestaat onder u de gewoonte, dat ik met
Pasen iemand vrijlaat. Wilt gij dus, dat ik u de
koning der Joden vrijlaat?”
L Toen begonnen ze opnieuw te schreeuwen:
A “Neen, Die niet, maar Barabbas!”
L Barabbas was een rover. Toen liet Pilatus Jezus
geselen. De soldaten vlochten een kroon van
doorntakken, zetten Hem die op het hoofd en
wierpen Hem een purperen mantel om.
Ze traden op Hem toe en zeiden:
A “Gegroet, koning der Joden!”
L En zij sloegen Hem in het gezicht.
Pilatus ging weer naar buiten en zei tot hen:

P “Ziehier, ik breng Hem naar buiten om u te doen
weten, dat ik volstrekt geen schuld in Hem vind.”
L Jezus kwam dus naar buiten, terwijl Hij nog de
doornenkroon en de purperen mantel droeg.
Pilatus zei tot hen:
P “Ziehier de mens.”
L Maar toen de hogepriesters en hun dienaars Hem
zagen, schreeuwden ze:
A “Kruisigen, kruisigen!”
L Pilatus zei hun:
P “Neemt gij Hem dan en kruisigt Hem,
want ik vind geen schuld in Hem.”
L De Joden antwoordden hem:
A “Wij hebben een Wet en volgens die Wet moet
Hij sterven, omdat Hij zich voor Gods Zoon heeft
uitgegeven.”
L Toen Pilatus dit hoorde, werd hij nog meer
bevreesd. Hij ging het pretorium weer binnen en
sprak tot Jezus:
P “Waar zijt Gij vandaan?”
L Jezus gaf hem echter geen antwoord.
Daarom zei Pilatus:

P “Gij spreekt niet tegen mij?
Weet Ge dan niet, dat ik de macht heb om U vrij te
spreken, maar ook de macht heb om U te
kruisigen?”
L Jezus antwoordde:
C “Ge zoudt volstrekt geen macht over Mij hebben
als u die niet van boven gegeven was.
Daarom is de zonde van hem, die Mij aan u heeft
overgeleverd groter.”
L Van dit ogenblik af wilde Pilatus ertoe overgaan
Hem vrij te laten. Maar de Joden schreeuwden:
A “Als ge die man vrijlaat, zijt ge geen vriend van
de keizer. Wie zich voor koning uitgeeft, komt in
verzet tegen de keizer.”
L Toen Pilatus hen dit hoorde roepen, liet hij Jezus
naar buiten brengen en ging op de rechtersstoel
zitten, op de plaats, die Litóstrotos heet, in het
Hebreeuws Gabbata. Het was de voorbereidingsdag
voor Pasen, ongeveer het zesde uur.
L Hij zei tot de Joden:
P “Hier is uw koning.”
L Maar zij schreeuwden:
A “Weg, weg met Hem! Kruisig Hem!”

L Pilatus vroeg:
P “Zal ik dan uw koning kruisigen?”
L De hogepriesters antwoordden:
A “Wij hebben geen andere koning dan de keizer!”
L Toen leverde hij Hem aan hen uit om de
kruisdood te ondergaan, en zij namen Hem over.
Zelf zijn kruis dragend, trok Jezus de stad uit naar
wat de Schedelplaats heet, in het Hebreeuws
Golgota. Daar sloegen zij Hem aan het kruis, en
met Hem nog twee anderen, aan elke kant een en
Jezus in het midden.
Pilatus had ook een opschrift laten maken
en op het kruis doen aanbrengen. Het luidde:
Jezus, de Nazoreeër, de koning van de Joden.
Vele Joden lazen dit opschrift, want de plaats waar
Jezus gekruisigd werd, lag dicht bij de stad.
Het stond er in het Hebreeuws, het Latijn en het
Grieks. De hogepriesters van de Joden nu zeiden
tot Pilatus:
A “Ge moest er niet op zetten: ‘de koning van de
Joden’, maar: ‘Hij heeft gezegd: Ik ben de koning
van de Joden’.”
L Pilatus antwoordde:
P “Wat ik geschreven heb, heb ik geschreven.”
L Toen de soldaten Jezus gekruisigd hadden,
namen ze zijn kleren en deelden ze in vieren,

voor iedere soldaat een deel.
Ze namen ook de lijfrok,
die echter zonder naad was, aan één stuk geweven
van bovenaf.
Daarom zeiden ze tot elkaar:
A “Laten we die niet scheuren,
maar er om loten wie hem krijgt.”
L Aldus moest de Schrift vervuld worden:
Zij verdeelden mijn kleren onder elkaar
en dobbelden om mijn gewaad.
Terwijl de soldaten hiermee bezig waren,
stonden bij Jezus’ kruis zijn moeder, de zuster van
zijn moeder, Maria, de vrouw van Klopas, en Maria
Magdalena. Toen Jezus zijn moeder zag en naast
haar de leerling, die Hij liefhad, zei Hij tot zijn
moeder:
C “Vrouw, zie daar uw zoon.”
L Vervolgens zei Hij tot de leerling:
C “Zie daar uw moeder.”
L En van dat ogenblik af nam de leerling
haar bij zich in huis.
Hierna, wetend dat nu alles was volbracht,
zei Jezus, opdat de Schrift vervuld zou worden:
C “Ik heb dorst.”
L Er stond daar een kruik vol zure wijn.
Ze doopten er een spons in,

staken die op een hysopstengel en brachten die
aan zijn mond.
Toen Jezus van de zure wijn genomen had, zei Hij:
C “Het is volbracht.”
L Daarop boog Hij het hoofd en gaf de geest.
Hier knielen allen enige ogenblikken.
Aangezien het voorbereidingsdag was en de Joden
niet wilden, dat de lichamen op sabbat aan het
kruis bleven – het was bovendien een grote sabbat
– vroegen zij aan Pilatus verlof de benen van de
gekruisigden te breken en hen weg te nemen.
Daarom kwamen de soldaten en sloegen
zowel bij de ene als bij andere, die met Hem was
gekruisigd, de benen stuk.
Toen zij echter bij Jezus kwamen en zagen dat Hij
reeds dood was, sloegen zij Hem de benen niet
stuk, maar een van de soldaten doorstak zijn zijde
met een lans; terstond kwam er bloed en water uit.
Die het gezien heeft, getuigt hiervan; zijn
getuigenis is waar en hij weet dat hij de waarheid
zegt, opdat ook gij zoudt geloven.
Dit is gebeurd, opdat de Schrift zou vervuld
worden: Van zijn gebeente zal niets worden
verbrijzeld, terwijl nog een ander Schriftwoord
zegt: Zij zullen opzien naar Hem, die zij hebben
doorstoken.
Daarna vroeg Jozef van Arimatéa, die een leerling
was van Jezus, maar in het geheim uit vrees voor
de Joden vroeg daarna aan Pilatus het lichaam van
Jezus te mogen wegnemen. Toen Pilatus dit had

toegestaan, ging hij dus heen en nam het lichaam
weg. Nikodémus, die Hem vroeger ‘s nachts
bezocht had, kwam ook en bracht een mengsel van
mirre en aloë mee, ongeveer honderd pond.
Zij namen het lichaam van Jezus en wikkelden het
met de welriekende kruiden in zwachtels,
zoals bij een Joodse begrafenis gebruikelijk is.
Op de plaats waar Hij gekruisigd werd, lag een tuin
en in die tuin een nieuw graf waarin nog nooit
iemand was neergelegd. Vanwege de
voorbereidingsdag van de Joden en omdat het graf
dichtbij was, legden zij Jezus daarin neer.
(géén “Woord van de Heer”)
Bron: https://dionysiusparochie.nl/lectionaria/deel-
a-veertigdagentijd/goede-vrijdag/